pacman, rainbows, and roller s
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  Tình Mẫu Đơn


Phan_11

“Nhưng em có bao nhiêu điều muốn nói với chàng. Đừng rời bỏ em,” tôi năn nỉ.

Chàng mỉm cười. “Ta nghe tiếng gia nhân trong sảnh. Hắn mang trà cho ta.”

Rồi giống như vào đêm diễn kịch đầu tiên, chàng đề nghị chúng tôi sẽ gặp lại. Rồi sau đó, chàng biến mất.

Tôi ở ngay tại đấy cả ngày đến đêm, chờ chàng tới gặp tôi trong giấc mộng của chàng. Những giờ chờ đợi đó khiến tôi có nhiều thời gian suy nghĩ. Tôi muốn là một hồn ma đắm say trong tình yêu. Trong Mẫu Đơn Đình, Lệ Nương đã mây mưa cùng Mộng Mai lần đầu tiên trong mộng và sau đó, khi nàng là một hồn ma, nàng cũng mây mưa với chàng. Khi trở lại làm người, nàng vẫn còn trong trắng và không muốn để trinh tiết của mình bị tổn hại trước hôn lễ. Nhưng điều đó có thể xảy ra trong đời thực không? Ngoài Mẫu Đơn Đình ra, hầu hết các truyện ma khác đều liên quan đến những yêu nữ hủy hoại, làm tổn thương hoặc giết hại tình lang của mình. Tôi nhớ tới một truyện mẹ kể, trong đó hồn ma nữ đã giữ mình khỏi chạm vào chàng thư sinh với lời lẽ “Bộ xương mốc meo từ nấm mồ này không hợp với người sống. Quan hệ với hồn ma chỉ đẩy chàng nhanh tới cái chết mà thôi. Em không dám làm hại chàng.” Tôi cũng không thể mạo hiểm làm tổn hại Nhân. Giống như Lệ Nương, tôi được chuẩn bị để làm một người vợ. Ngay cả khi đã chết, nhất là khi đã chết, tôi không thể để phu quân coi mình là gì đó thấp kém hơn một vị tiểu thư đài các. Như Lệ Nương đã nhận định, Hồn ma có thể bị đam mê lừa dối; phụ nữ thì phải chú ý đầy đủ đến lễ nghi.

Đêm đó, khi Nhân trở lại Vọng Nguyệt Đình, chúng tôi nói chuyện về thơ và hoa, về cái đẹp và về chữ tình, về tình yêu trường cửu và tình yêu nhất thời của các cô gái trong lầu xanh. Khi chàng đi lúc tảng sáng, tôi cảm thấy thất vọng. Suốt quãng thời gian ở cùng chàng, tôi muốn vươn tay vào trong áo dài của chàng và chạm vào da thịt chàng. Tôi muốn thì thầm những thông điệp của trái tim vào tai chàng. Tôi muốn nhìn và chạm vào thứ ẩn giấu trong quần chàng, tôi muốn chàng lột bỏ những lớp vải liệm cho tới khi tìm thấy vị trí đang khao khát được đụng chạm ngay cả trong cái chết.

Đêm hôm sau, chàng mang theo bút, nghiên, giấy, mực. Chàng cầm tay tôi và chúng tôi cùng mài mực vào nghiên, rồi tới bên hồ, ở đó chàng khum bàn tay tôi lại để tôi mang nước về hòa mực.

“Hãy nói ta hay,” chàng bảo. “Hãy nói cho ta biết cần phải viết gì.”

Tôi nghĩ đến trải nghiệm của mình trong những tuần cuối cùng, rồi bắt đầu đọc.

Liệng ngang trời trong cơn trằn trọc mãi

Những núi non tươi mát dưới sương

Hồ mờ xa

Chàng cuốn em vào chàng qua những đám mây.

Khi những từ cuối cùng bật khỏi môi tôi, chàng để bút xuống và cởi tấm áo choàng có đệm lót với ống tay thêu hình lông chim bói cá của tôi ra.

Chàng viết bài thơ tiếp theo, chữ viết của chàng thanh lệ như bàn tay mơn trớn. Chàng đặt tên bài thơ là “Tiên nữ ghé thăm,” và đó là về tôi.

Thôi giã từ thôi, thôi nhớ thương

Đêm ơi ngập ngúa bấy đêm trường!

Nàng theo sương khói về trong mộng,

Ta nhớ Tầm Dương, tay phím buông...

...Dấu tiên mờ mịt, lìa Lưu Nguyễn

Hồn bướm miên man, hẹn Chúc Lương

Nức nở đàn ai, sầu vỡ giấc.

Khuây ngồi rạc bóng trước trăng suông..

Chúng tôi cùng làm mười tám bài thơ. Tôi đọc một dòng và chàng làm dòng tiếp theo, thường mượn lời từ vở kịch mà chúng tôi yêu thích. “Đêm nay em đến với chàng bằng cả thể xác và cả tình yêu, là của chàng trong mọi khát khao,” tôi dẫn lời Lệ Nương sau hôn lễ bí mật của nàng. Mỗi dòng là một nỗi niềm riêng tư được bộc bạch. Mỗi dòng mang chúng tôi đến gần nhau hơn. Và mỗi bài càng lúc càng ngắn hơn khi hết lớp này đến lớp khác trên bộ đồ liệm của tôi rơi xuống đất. Tôi quên đi những âu lo. Tất cả thu lại thành những từ lạc thú, rì rầm, quyến rũ, trào dâng, mây.

Bình minh ló rạng và chàng bị tách khỏi tôi. Đơn giản là qua rồi. Vầng dương đã ở trên cao và tôi đang ở dưới những lớp áo liệm còn lại. Người chết không cảm thấy nóng hay lạnh theo cách thông thường. Hơn thế, chúng tôi cảm thấy điều gì đó sâu sắc hơn, điều gì đó kết nối với xúc cảm của những cảm giác này. Tôi không sao kìm được mà run lên, nhưng tôi không mặc lại y phục. Cả ngày đến đêm tôi chờ Nhân trở lại nhưng chàng không đến. Thế rồi bỗng dưng có những sức mạnh khủng khiếp kéo tôi khỏi Vọng Nguyệt Đình. Tôi chỉ mặc mỗi đồ lót và tấm áo dài thêu hình chim bay thành đôi trên những bông hoa.

Tôi đã chết năm tuần và ba phần hồn tôi bắt đầu quằn quại tách rời nhau một cách không thể đừng được. Một phần hồn ở lại thân xác tôi mãi mãi, phần lang thang bắt đầu giạt vào bài vị trong khi phần ở cõi âm đã đến Vọng Hương Đài. Ở nơi này, người chết rất buồn và khao khát được cho cơ hội cuối cùng nhìn lại nhà cửa và lắng nghe những người thân. Từ rất xa, tôi lần dọc theo bờ Tây Hồ tới khi trở lại nhà mình. Ban đầu mọi thứ tôi có thể thấy được chỉ là những điều vặt vãnh: gia nhân đổ bô trong buồng mẹ, mấy người thiếp tranh cãi về một chiếc đĩa hình đầu sư tử, con gái vú Thiệu giấu các hình thêu của nó vào giữa những trang giấy trong bản Mẫu Đơn Đình của tôi. Nhưng tôi cũng thấy nỗi buồn của cha mẹ và cảm thấy đau nhói vì ân hận. Tôi đã chết vì quá đa tình. Tôi rời bỏ dương thế vì tình cảm dạt dào đã làm tôi choáng ngợp, hủy hoại sức khỏe và che mờ suy nghĩ. Bên dưới, mẹ đang khóc và tôi nhận ra rằng bà đã đúng. Lẽ ra tôi nên tránh xa Mẫu Đơn Đình. Nó đã mang lại cho tôi quá nhiều đam mê, thất vọng và hy vọng và giờ đây, tôi ở chốn này, bị chia lìa khỏi gia đình, người thân và chồng mình.

Là trưởng nam, cha tôi gánh vác mọi nghi lễ. Bổn phận và trách nhiệm chính của ông giờ đây là chứng kiến tôi được chôn cất một cách hợp thức và bài vị của tôi được điểm. Người nhà và các gia nhân chuẩn bị thêm vàng mã, mọi thứ mà họ nghĩ là tôi có thể cần cho cuộc sống mới. Họ làm y phục, thực phẩm, phòng ốc và sách để tôi giải trí. Họ không cho tôi kiệu vì ngay cả khi đã chết mẹ cũng không muốn tôi ra ngoài. Trong đêm trước lễ tang, những đồ cúng này được đốt trên phố. Trên Vọng Hương Đài, tôi thấy vú Thiệu lấy gậy đập vào đống lửa và những lá giấy khi chúng xoắn lại khi cháy nhằm xua đi những linh hồn muốn lấy đồ của tôi. Lẽ ra cha tôi nên bảo một trong các chú của tôi làm việc này để tỏ ra rằng ông thực sự hữu ý và mẹ tôi nên vãi gạo quanh rìa đống lửa để dụ những hồn ma đói đang nài xin cái ăn, bởi vì vú Thiệu không xua đuổi được những linh hồn và hầu như mọi thứ đều bị lấy trộm trước khi tôi có cơ hội nhận được.

Khi quan tài tôi đi tới phong hỏa môn, tôi thấy Nhân. Thậm chí khi chú hai đập một chiếc chén có lỗ thủng ngay phía trên chỗ đặt đầu tôi, từ bây giờ, tôi chỉ được phép uống phần nước mà tôi đã lãng phí khi sống, tôi vẫn thấy hân hoan. Tiếng pháo xua đuổi những điềm gở liên quan đến tôi ở quanh trang viên. Tôi được đặt vào một chiếc kiệu, không phải kiệu hoa cho lễ vu quy mà là kiệu xanh dùng cho người chết. Đám rước khởi hành. Chú tôi ném tiền vàng làm lộ phí cho tôi tới cõi âm. Nhân cúi đầu bước đi giữa cha tôi và Đàm đại nhân. Theo sau họ là những chiếc kiệu chở mẹ tôi, các thím và các cô em họ.

Tại nghĩa trang, quan tài tôi được hạ huyệt. Gió xạc xào thổi qua hàng dương thành những khúc ca ma mị. Mẹ, cha, các chú thím và em họ, mỗi người nhặt một nắm đất ném lên quan tài. Khi đất che phủ hết mặt gỗ sơn, tôi cảm thấy phần hồn thứ ba biến mất khỏi mình mãi mãi.

Ở Vọng Hương Đài, tôi quan sát và lắng nghe. Chẳng ai cử hành lễ cưới ma. Họ cũng không bày biện yến tiệc ở mộ địa để giới thiệu tôi với những người bạn mới và dọn đường cho sự thông hiểu giữa tôi và những người xóm giềng mới. Mẹ tôi ốm yếu vì đau buồn tiếc thương đến nỗi các thím phải giúp bà trở lại kiệu. Cha dẫn đầu đám rước và một lần nữa Nhân và Đàm đại nhân ở bên cạnh ông. Không ai nói gì một hồi lâu. An ủi gì khi một người cha vừa mất đi đứa con độc nhất? Nói gì được với một chú rể vừa mất đi cô dâu của mình?

Cuối cùng, Đàm đại nhân cũng nói với cha tôi: “Con gái ngài không phải là người duy nhất bị vở kịch khủng khiếp này tiêm nhiễm.”

Đây là kiểu an ủi gì thế?

“Nhưng nàng yêu vở kịch ấy,” Nhân lẩm bẩm. Những người khác nhìn chàng chằm chằm và chàng nói thêm, “Cháu đã nghe người ta nói về tiểu thư như vậy, Trần lão gia. Nếu cháu may mắn lấy được tiểu thư, cháu sẽ không đời nào ngăn nàng khỏi vở kịch cả.”

Khó mà miêu tả được cảm xúc của tôi lúc thấy chàng ở đó khi mà ngay mới đây thôi chúng tôi còn ở trong vòng tay nhau, làm thơ, để tình chan chứa giữa chúng tôi. Nỗi tiếc thương của chàng là sự thực và một lần nữa tôi lại ngập tràn trong nỗi hối tiếc vì sự bướng bỉnh và ngu ngốc đã mang tôi đến chốn này.

“Nhưng tiểu thư chết vì tương tư, giống như cô gái đáng thương trong vở kịch kia!” Đàm đại nhân thốt lên. Có vẻ như ông không quen có ai đó bất đồng ý kiến với mình.

“Đúng là khuynh hướng mô phỏng nghệ thuật trong đời thực không phải lúc nào cũng là một điều dễ chịu,” cha tôi thừa nhận. “Nhưng cậu ấy nói đúng. Con gái tôi không thể sống thiếu văn chương và cảm xúc. Còn ngài, Đàm đại nhân, chẳng lẽ ngài không bao giờ muốn tới khu nhà của phụ nữ để trải nghiệm chiều sâu thực sự của chữ tình ư?”

Trước khi Đàm đại nhân trả lời, Nhân nói, “Con gái lão gia không thiếu văn chương hay tình cảm, thưa Trần lão gia, nàng đã tới thăm cháu trong mộng ba đêm liền.”

Không! Tôi kêu lên ở Vọng Hương Đài. Chàng không hiểu tiết lộ chuyện này nghĩa là gì ư?

Cha tôi và Đàm đại nhân lo lắng nhìn chàng.

“Sự thực là, chúng cháu đã gặp nhau,” Nhân nói, “Vài đêm trước, chúng cháu đã ở với nhau trong Vọng Nguyệt Đình nhà lão gia. Khi nàng tới thăm cháu lần đầu, tóc nàng được đã được vấn lên chuẩn bị cho đám cưới. Ống tay áo choàng ngoài thêu màu lông chim bói cá.”

“Cậu đã miêu tả hoàn toàn chính xác,” cha tôi khẳng định với vẻ ngờ vực. “Nhưng sao cậu lại biết nó nếu trước đây cậu chưa từng gặp nó?”

Nhân sẽ để lộ bí mật của chúng tôi ư? Liệu chàng có hủy hoại tôi trong con mắt của cha không?

“Trái tim cháu nhận ra nàng,” Nhân đáp. “Chúng cháu cùng làm thơ, Liệng ngang trời trong cơn trằn trọc mãi... Khi tỉnh giấc cháu đã chép lại mười tám bài thơ.”

“Nhân, cậu lại tỏ ra mình là người tình cảm rồi,” cha bảo. “Tôi không thể đòi hỏi một người con rể tốt hơn.”

Nhân thò vào ống tay áo lấy ra mấy tờ giấy gấp lại. “Cháu nghĩ là lão gia sẽ thích đọc cái này.”

Nhân là người tuyệt vời song chàng đã phạm một lỗi khủng khiếp, gần như không thể sửa chữa. Khi còn sống, tôi nghe kể rằng nếu người chết xuất hiện trong giấc mơ của người sống mà người này kể lại với ai chuyện đó, hoặc tệ hơn, nếu người này chép lại và đưa ra những gì người chết nói, thì linh hồn sẽ bị xua đi. Đây là lý do tại sao những hồ ly tinh, hồn ma và thậm chí cả những tinh linh bất tử năn nỉ tình nhân trần thế của họ đừng tiết lộ với người đời sự tồn tại của họ. Nhưng con người không thể giữ được bí mật. Và dĩ nhiên linh hồn, bất kể ở dạng nào, không “biến mất.” Linh hồn sẽ đi đâu? Song chuyện tới thăm chàng trong mộng trở nên gần như bất khả. Tôi đã bị hủy hoại.

Tuần lễ thứ sáu sau khi chết, lẽ ra tôi đã qua sông Nại Hà. Lẽ ra vào tuần lễ thứ bảy, tôi sẽ tới địa hạt của Pháp Luân Vương, ở đó tôi bị giải ra trước vị phán quan quyết định số phận mình. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra hết; tôi vẫn ở lại Vọng Hương Đài. Tôi bắt đầu ngờ rằng có gì đó lầm lẫn nghiêm trọng.

Tôi chưa từng thấy cha nhắc tới đám cưới ma với Nhân. Cha quá bận rộn sửa soạn chuyển tới Bắc Kinh để nhận chức vụ mới. Tôi nên đau đớn trước hành động này - sao ông có thể cho phép mình tuân phục vua Mãn Châu? - và tôi đã đau đớn. Tôi nên lo lắng cho tâm hồn ông khi ông quyết định đem đạo đức đánh đổi lấy tiền tài, và tôi đã lo lắng thật. Nhưng tôi còn lo âu nhiều hơn chuyện ông sẽ cố bẫy một người nào đó, không phải Ngô Nhân, chấp nhận tôi làm vợ ma. Cha có thể dễ dàng ném chút tiền ra ngoài cổng, chờ ai đó ngang qua nhặt lên và nói với người đó rằng anh ta đã nhặt “quà dẫn cưới”, và điều đó có nghĩa là anh ta đã nhận tôi làm vợ. Nhưng chuyện này cũng không xảy ra.

Mẹ tôi bảo bà sẽ không theo cha tôi tới Bắc Kinh, quyết tâm không bao giờ rời khỏi trang viên nhà họ Trần chẳng hề dao động. Điều này khiến tôi lấy làm an ủi. Với mẹ, niềm vui và tiếng cười của những ngày hạnh phúc ở Xuân Đình trước khi tôi nhốt mình trong phòng đã không còn nữa, thay vào đó chỉ là nước mắt và phiền muộn. Bà ở hàng giờ trong nhà kho cất giữ đồ đạc của tôi, tìm hơi người tôi còn vương lại áo quần, chạm vào những chiếc bút tôi đã cầm, nhìn những món đồ tôi thêu làm của hồi môn. Tôi đã chống lại mẹ khá lâu; giờ lúc nào tôi cũng mong ngóng bà.

Bốn mươi chín ngày sau khi tôi chết, cả gia đình tụ tập ở từ đường để điểm lên bài vị của tôi và chào từ biệt lần cuối cùng. Người chủ trò và vài kép hát tụ tập ở sân trong. Một người thật đặc biệt nào đó, một thư sinh hay người thuộc giới trí giả, thường được trao vinh dự điểm những nét kiểu cách lên bài vị. Khi việc này kết thúc, phần hồn thứ ba của tôi sẽ được chuyển vào trong bài vị ấy, ở đó nó sẽ dõi theo gia đình và người thân. Nghi thức điểm bài vị sẽ cho phép tôi được thờ cúng như các vị tổ tiên và cho tôi một nơi trú ngụ ở trần gian mãi mãi về sau. Bài vị được điểm cũng là vật để qua đó người thân của tôi gửi đồ cúng cho tôi ở thế giới bên kia, thỉnh cầu sự phù hộ của tôi, an ủi tôi nhỡ khi tôi gặp phải những hiềm khích có thể xảy ra. Trong tương lai, khi gia đình tôi bắt tay vào một vụ buôn bán mới, đặt tên cho con trẻ hay cân nhắc một lời cầu hôn, họ sẽ hỏi ý kiến tôi qua bài vị. Tôi chắc rằng Đàm đại nhân, người có phẩm cấp cao nhất mà cha tôi quen ở Hàng Châu, sẽ điểm lên bài vị. Nhưng cha tôi đã chọn người có ý nghĩa với tôi hơn bất cứ ai: Ngô Nhân.

Trông chàng còn quẫn trí hơn trong ngày tôi nhập thổ. Tóc chàng rối bù như thể chàng không hề ngủ nghê gì. Đau đớn và nuối tiếc ngập tràn trong mắt chàng. Giờ đây tôi không được phép đi vào giấc mơ của chàng, và chàng hiểu quá rõ rằng mình đã mất tất cả. Phần hồn sắp cư ngụ trong bài vị của tôi đến bên chàng. Tôi muốn chàng biết tôi ở cạnh bên, nhưng cả chàng và mọi người đều không nhận thức được sự hiện diện của tôi. Tôi còn mong manh hơn cả một làn khói hương.

Bài vị của tôi dựng trên một ban thờ. Nó đã được khắc tên tuổi, giờ sinh và giờ mất của tôi. Gần bài vị là một đĩa tiết gà trống và bút. Nhân nhúng bút vào tiết gà. Chàng nhấc bút lên để truyền sinh khí cho bài vị, do dự rồi buông bút xuống, rên rỉ và chạy ra khỏi từ đường. Cha tôi cùng đám gia nhân đuổi theo chàng. Họ đưa chàng ngồi dưới gốc cây ngân hạnh. Họ mang trà cho chàng. Họ an ủi. Rồi cha nhận ra mẹ vắng mặt.

Tất cả chúng tôi theo ông về từ đường. Mẹ nằm trên sàn, khóc nức nở và giữ chặt bài vị của tôi. Cha nhìn mẹ bất lực. Vú Thiệu cúi xuống cố cạy lấy bài vị trong tay bà nhưng mẹ không buông ra.

“Lão gia ơi, hãy để tôi giữ nó,” mẹ nức nở.

“Bài vị cần được điểm,” ông bảo.

“Nó là con gái tôi, để tôi làm cho,” bà năn nỉ. “Làm ơn đi mà.”

Nhưng mẹ không phải người xuất chúng. Bà không phải là văn sĩ, cũng không phải bậc trí giả. Rồi trước sự nghi hoặc vô cùng của tôi, cha mẹ trao nhau một cái nhìn cảm thông sâu sắc.

“Dĩ nhiên rồi,” ông nói. “Thế thì hoàn hảo.”

Rồi vú Thiệu choàng tay qua người mẹ và dẫn bà đi. Cha tôi cho người chủ trò và mấy kép hát về. Những người còn lại trong gia đình cũng giải tán. Nhân trở về nhà.

Mẹ khóc suốt đêm. Bà không chịu buông bài vị ra mặc dầu vú Thiệu dỗ dành mãi. Làm sao tôi lại không nhận ra mẹ yêu thương mình nhiều tới nhường nào. Có phải đó là lý do cha cho phép bà điểm lên bài vị của tôi không? Nhưng thế thì không có ý nghĩa gì cả. Đây là bổn phận của cha.

Sáng hôm sau, ông dừng lại bên cửa buồng mẹ. Khi vú Thiệu mở cửa, ông thấy mẹ khuất dưới chăn, rên rỉ buồn bã. Ánh mắt ông đượm vẻ đau đớn.

“Nói với phu nhân là ta phải tới kinh thành,” ông thì thào với vú Thiệu.

Ông miễn cưỡng quay đi. Tôi theo ông tới cổng trước, ở đó ông sẽ lên chiếc kiệu để tới nơi nhậm chức mới. Sau khi kiệu đi khuất, tôi trở lại buồng mẹ. Vú Thiệu quỳ trên sàn cạnh giường chờ đợi.

“Con gái ta đã đi rồi,” mẹ rên rỉ.

Vú Thiệu ấp úng tỏ vẻ cảm thông và vuốt những sợi tóc bết dính ra khỏi gò má ướt đẫm của mẹ.

“Đưa bài vị cho tôi nào, Trần phu nhân. Hãy để tôi đưa nó cho lão gia. Ông ấy phải cử hành nghi lễ.”

Bà ta đang nghĩ gì thế? Cha đã đi rồi mà.

Mẹ không biết điều đó nhưng bà siết chặt tay quanh bài vị, không chịu buông nó ra, không chịu buông tôi ra.

“Phu nhân hiểu nghi lễ mà,” vú Thiệu cứng rắn nói. Thật đúng như con người mình, vú dựa vào truyền thống để làm nguôi ngoai nỗi buồn của mẹ tôi. “Đây là bổn phận của người cha. Giờ phu nhân đưa nó cho tôi nào.” Khi thấy mẹ tôi dao động, vú nói thêm, “Phu nhân hiểu là tôi đúng mà.”

Mặc dù không muốn, mẹ đưa bài vị cho vú Thiệu. Khi bà ta rời buồng, mẹ vùi mặt vào chăn rồi lại khóc. Tôi theo người vú già của mình khi vú bước tới nhà kho sau trang viên và nhìn một cách bất lực khi thấy bà ta cất bài vị lên một chiếc giá cao phía sau bình củ cải muối.

“Quá nhiều rắc rối với cô chủ rồi,” vú nói và khò khè cổ họng như thể muốn nhổ đi một vị thức ăn tồi tệ. “Không ai muốn thấy cái vật gở này.”

Bài vị không được điểm thì tôi không thể vào đó được và phần hồn lẽ ra phải cư ngụ tại bài vị đã tái hợp cùng tôi ở Vọng Hương Đài.

Chương 9: Vọng Hương Đài

Không thể đi xa hơn Vọng Hương Đài nên tôi không có cơ hội biện hộ ình trước các vị phán quan ở địa ngục.

Nhiều ngày trôi qua, tôi nhận ra rằng mình vẫn có những nhu cầu và mong muốn như khi còn sống. Cái chết đã không dập tắt tình cảm của tôi mà còn làm chúng dữ dội thêm. Thất tình mà ở trần gian chúng tôi đã nói tới, hỉ, nộ, sầu, kinh, ái, hận và vọng, đã đi cùng tôi tới cõi âm. Tôi thấy những tình cảm sơ khai này thống trị và bền lâu hơn bất cứ sức mạnh nào khác trong vũ trụ: mạnh mẽ hơn sự sống, dai dẳng hơn cái chết, uy quyền hơn thứ thần linh có thể điều khiển, lơ lửng bên trên chúng ta, không có bắt đầu và cũng không có kết thúc. Và khi tôi bị cuốn vào chúng, không gì mãnh liệt hơn nỗi buồn tôi cảm thấy về cuộc đời đã mất đi.

Tôi nhớ Trần gia trang. Tôi nhớ mùi gừng, trà xanh, hoa nhài và mưa mùa hạ. Sau nhiều tháng chán ăn, đột nhiên tôi thấy thèm ăn ngó sen om tương ngọt, thịt vịt đông, cua hồ và tôm he. Tôi nhớ tiếng họa mi, tiếng chuyện trò của đàn bà con gái trong nội đường, tiếng nước vỗ bờ. Tôi nhớ cảm giác vải lụa chạm vào da thịt và làn gió ấm thổi qua cửa sổ khuê phòng. Tôi nhớ mùi giấy mực. Tôi nhớ những cuốn sách. Tôi nhớ khả năng bước vào những trang sách và vào một thế giới khác. Nhưng nhớ nhất là gia đình, người thân.

Hàng ngày tôi nhìn qua lan can để quan sát. Tôi thấy mẹ, các thím, các em và những người tỳ thiếp trở lại với công việc thường ngày. Tôi vui khi cha về thăm nhà, gặp gỡ những người trẻ tuổi ở Phong Nhã Đường vào những buổi chiều, uống trà với mẹ tôi vào buổi tối. Tuy vậy tôi chưa từng thấy họ nói về tôi. Mẹ không nhắc tới chuyện bà chưa điểm lên bài vị của tôi vì nghĩ cha đã làm rồi. Ông không nói đến nó vì nghĩ bà đã làm. Dĩ nhiên điều đó có nghĩa là cha cũng không mời Nhân trở lại để điểm lên bài vị cho tôi. Với bài vị bị giấu đi như thế, tôi có thể sẽ kẹt mãi ở đây. Khi quá sợ hãi lo lắng về chuyện đó, tôi tự an ủi rằng Đỗ thái thú cũng đã chuyển đi vì được thăng quan ngay sau cái chết của Lệ Nương và cũng quên điểm lên bài vị nàng. Giữa tôi và Lệ Nương có quá nhiều điểm tương đồng, chắc chắn là tôi cũng sẽ được mang trở lại cuộc sống bằng tình yêu đích thực.

Tôi bắt đầu tìm nhà Nhân. Cuối cùng, sau vô số nỗ lực, tầm mắt tôi tìm đường bằng cách lướt qua mặt nước Tây Hồ, ngang qua Cô Đảo và băng sang bờ Bắc. Tôi xác định vị trí ngôi miếu có đuốc thắp rất sáng trong đêm diễn kịch, rồi từ đó xác định vị trí nhà Nhân.

Tôi được coi là Ngọc nữ sánh đôi với Kim đồng, nghĩa là hai gia tộc chúng tôi môn đăng hộ đối, nhưng nhà họ Ngô chỉ có vài khoảnh sân, chiếc đình nghỉ mát, và một trăm hai mươi người. Anh trai của Nhân đã đi nhậm chức ở tỉnh xa, sống cùng vợ và con gái, vậy nên trong nhà chỉ có Nhân, mẹ chàng và mười gia nhân. Tôi quan tâm chuyện này ư? Không, tôi tương tư và chỉ nhìn những gì muốn nhìn, mà đó là một trang viên nhỏ nhưng trang nhã. Cửa chính sơn son và mái ngói xanh hòa hợp một cách tuyệt vời với những cây liễu mọc quanh khu nhà. Cây mai mà Nhân kể với tôi mọc ở sân giữa nhưng đã trụi lá. Và kia là Nhân, chàng dành cả ngày sáng tác trong thư phòng, dùng bữa cùng bà mẹ góa, lang thang trong hoa viên và dọc các hành lang tối tăm khi đêm về. Lúc nào tôi cũng ngắm nhìn chàng và quên mất gia đình mình. Đó là lý do tôi bất ngờ khi vú Thiệu đến gọi cửa Ngô gia.

Vú già của tôi được dẫn vào một sảnh đường và bảo ngồi đợi. Rồi một gia nhân đưa Nhân và mẹ chàng vào. Ngô phu nhân đã là quả phụ nhiều năm và gần như toàn mặc đồ tối màu. Tóc bà lốm đốm những sợi bạc, khuôn mặt đượm vẻ đau khổ vì mất chồng. Vú Thiệu cúi chào mấy lần, nhưng bà ta chỉ là gia nhân nên họ không nói những lời xã giao và Ngô phu nhân không mời trà.

“Khi tiểu thư sắp mất,” vú Thiệu nói, “tiểu thư đưa tôi vài thứ, bảo tôi mang đến nhà ta. Đầu tiên là...” Vú Thiệu lật góc của tấm khăn lụa phủ trên chiếc giỏ tre rồi đem ra một gói nhỏ cũng được bọc trong lụa. Bà ta cúi đầu và chìa ra cái gói đặt trong lòng bàn tay. “Tiểu thư dự định biếu phu nhân vật này đẻ thể hiện lòng hiếu thảo.”

Ngô phu nhân nhận cái gói và chầm chậm mở ra. Bà cầm một chiếc hài tôi đã làm lên và xem xét nó bằng con mắt sắc sảo của mẹ chồng. Những đóa mẫu đơn tôi thêu nổi bật trên nền xanh thẫm. Ngô phu nhân đưa cho con trai và nói, “Đường kim mũi chỉ của vợ con rất khéo.”

Nếu tôi còn sống, bà có nói vậy với tôi không? Hay là bà sẽ phê bình tôi, như các bà mẹ chồng vẫn làm?

Vú Thiệu lại thò tay vào thúng và lấy ra bản Mẫu Đơn Đình của tôi.

Đây là một sự thực về cái chết: Đôi khi ta quên mất điều ta từng nghĩ là quan trọng. Tôi đã yêu cầu vú Thiệu mang tập một của Mẫu Đơn Đình tới nhà mới ba ngày sau hôn lễ. Vú đã không làm thế vì những lý do hiển nhiên, và tôi đã quên lời hứa của bà ta, quên cả công trình của tôi nữa. Ngay cả khi thấy con gái vú giấu mẫu thêu của nó trong những trang sách, tôi cũng không nhớ ra.

Sau khi vú Thiệu giải thích rằng tôi đã thức khuya để đọc và viết, rằng mẹ tôi đốt sách và rằng tôi đã giấu tập một trong chăn đệm, Nhân cầm cuốn sách trong tay và mở ra.

“Con trai ta xem vở kịch ấy, và rồi nó lùng sục khắp thành để tìm ấn bản đặc biệt này,” Ngô phu nhân giải thích. “Ta nghĩ sẽ là tốt hơn cả nếu để con dâu ta tặng chúng cho tiểu thư Mẫu Đơn. Nhưng đây chỉ là tập một. Thế tập hai đâu?”

“Như tôi đã thưa chuyện, mẹ tiểu thư đã đốt rồi,” vú Thiệu nhắc lại.

Ngô phu nhân thở dài và mím môi vẻ không tán thành.

Nhân đọc lướt qua các trang, thỉnh thoảng lại dừng.

“Mẹ có thấy không ạ?” chàng hỏi, chỉ vào những chữ bị nước mắt tôi làm nhòe. “Hồn cốt nàng lấp lánh trên trang giấy.” Chàng bắt đầu đọc. Một lúc sau chàng ngẩng lên rồi nói, “Con thấy khuôn mặt nàng trong từng con chữ. Mực trông đậm và tươi. Mẹ này, mẹ còn có thể cảm thấy mồ hôi tay nàng trên giấy nữa.”

Ngô phu nhân nhìn con trai mình với ánh mắt đầy thương cảm.

Tôi cảm thấy chắc chắn rằng Nhân sẽ đọc những suy nghĩ của tôi về vở kịch và biết chàng phải làm gì. Vú Thiệu sẽ giúp chàng bằng cách bảo chàng điểm lên bài vị của tôi.

Song vú Thiệu không nhắc gì đến tấm bài vị chưa được điểm và Nhân không có vẻ hy vọng hay hứng thú chút nào. Đúng hơn là nét mặt chàng càng thêm rầu rĩ. Nỗi đau sâu sắc đến nỗi tôi cảm thấy như thể tim mình đang tan ra từng mảnh.

“Chúng ta biết ơn bà,” Ngô phu nhân nói với vú Thiệu, “Con trai ta tìm thấy vợ mình trong nét bút của tiểu thư. Như thế, tiểu thư vẫn như còn sống.”

Nhân gấp sách lại và bất ngờ đứng lên. Chàng cho vú Thiệu một lạng bạc, bà ta cất vào túi. Rồi, không nói thêm lời nào, chàng đi thẳng bước ra khỏi phòng, kẹp cuốn sách của tôi dưới nách.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .